Cuộc đời của Julian Assange, nhà sáng lập trang web WikiLeaks, hấp dẫn như một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm, bắt đầu từ một tuổi thơ khá dữ dội
Julian Paul Assange (tên đầy đủ ) sinh ngày 3-7-1971 tại Townsville, một thành phố nhỏ ở bang Queensland, Đông Bắc duyên hải nước Úc.
Sau lễ thôi nôi của Julian, mẹ ông – bà Christine Assange – đi bước nữa lấy một ông bầu gánh hát lưu động. Họ sống nay đây mai đó, khi thì ở gần vịnh Byron bang New South Wales, khi thì ở trên đảo Magnetic nơi mà thuyền trưởng Cook, nhà thám hiểm trứ danh người Anh, tin rằng có từ trường rất mạnh khiến chiếc la bàn của ông quay cuồng lung tung.
Bà Christine Assange: “Con tôi không phải là giáo sĩ Hồi giáo”. Ảnh: Daily Mail
Giống như Tom Sawyer
Cả hai vợ chồng bà Christine thuộc tuýp người có ít nhiều máu nổi loạn. Mẹ của Julian, năm 17 tuổi, từng đốt sách giáo khoa rồi bỏ nhà đi bụi với một chiếc mô tô.
Cuộc sống Julian trên đảo được mô tả giống như cậu bé Tom Sawyer trong cuốn tiểu thuyết lừng danh của nhà văn Mark Twain. “Tôi có một con ngựa riêng. Tôi tự làm một chiếc bè. Tôi đi câu. Tôi phiêu lưu trong các hầm mỏ và địa đạo”.
Từ năm 14 tuổi, gia đình Julian lần lượt di chuyển qua 37 địa danh, do đó, chuyện học hành của Julian không được ổn định. Nơi nào ở lâu một chút, Julian vào trường học. Những lúc khác, ông học hàm thụ với các giáo sư đại học. Nhưng phần lớn thời gian, ông tự học một cách miệt mài.
Julian thích các môn khoa học. Ông kể lại: “Tôi dành phần lớn thời gian la cà các thư viện”. Vốn từ của Julian rất phong phú nhưng mãi đến sau này, ông mới biết đánh vần một cách chính xác những từ ông học được.
Năm Julian lên tám, mẹ ông bỏ chồng theo một chàng nhạc sĩ và sinh cho ông này một đứa con trai. Quan hệ chồng vợ lúc nào cũng đầy bão tố. Mẹ của Julian thường hay than vãn ông chồng thích thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Do đó, một lần nữa mẹ Julian lại trở thành người mẹ đơn thân.
Cuộc chiến giành đứa em cùng mẹ khác cha của Julian hết sức quyết liệt. Người chồng nhạc sĩ vốn là môn đồ của một giáo phái kỳ dị chủ trương “không thấy, không biết, không nghe”. Trong đạo có một số thành viên là bác sĩ yêu cầu các nữ môn đồ dâng hiến con sơ sinh của mình cho nữ giáo chủ Anne Hamilton-Byrne. Giáo phái này có cả gián điệp nằm vùng trong chính phủ.
Bởi vậy, bà Christine rất sợ người chồng đầy quyền năng bắt con. Bà âm thầm dắt hai đứa con chạy trốn suốt năm trường. Trên đường chạy trốn, có một lần mẹ của Julian thuê một căn nhà nằm đối diện với một cửa hàng điện tử. Lúc đó, Julian đã biết chút ít về lập trình tin học. Ông muốn qua cửa hàng mượn cỗ máy Commodore 64 để viết lập trình. Thấy con quá say mê, mẹ của Julian đi thuê một chỗ ở khác rẻ tiền hơn để có tiền sắm cho Julian chiếc Commodore của riêng mình.
Cao thủ bẻ khóa
Julian bắt đầu bẻ khóa các chương trình nổi tiếng bằng cách truy tìm thông tin ẩn của nhà lập trình. Theo lời kể của Julian, công việc bẻ khóa giống như đánh cờ vua. Nếu bạn không rành các thế cờ thì đừng mong làm nên chuyện.
17 tuổi, Julian Assange đã trở thành một cao thủ tin tặc. Ảnh: World Press
Julian tự coi là một kẻ sống bên lề cuộc đời. Năm 16 tuổi, ông mua một modem. Chiếc máy tính của được biến thành một cổng thông tin. Julian tự xưng là Mendax – xuất phát từ cụm từ “splendide mendax” (lời giả dối cao thượng) của nhà thơ trữ tình La Mã Horace. Lần lần, Julian nổi tiếng trong giới tin tặc là một cao thủ có thể bẻ khóa các mạng gọi là an ninh nhất.
Julian cùng với hai tin tặc khác thành lập nhóm International Subversives, xâm nhập các hệ thống máy tính ở châu Âu và Bắc Mỹ, kể cả mạng thông tin của Lầu Năm Góc và Los Alamos National Laboratory, phòng nghiên cứu khoa học và công nghệ của Mỹ lừng danh thế giới.
Trong quyển Underground (Ngầm) viết chung với nhà văn Suelette Dreyfus, Julian đề xướng một quy tắc vàng của văn hóa tin tặc: “Không được làm hỏng hệ thống máy tính mà bạn xâm nhập (kể cả chuyện đánh sập nó). Không được thay đổi thông tin trong hệ thống. Chia sẻ thông tin”.
Có con
Vào thời điểm đó, Julian si mê một cô gái 17 tuổi. Ông tạm rời gia đình, ra riêng với người yêu. Không may, một hôm cảnh sát liên bang phát hiện chỗ ở của đôi nhân tình và tịch thu máy tính cùng những vật dụng liên quan. Sau này, Julian mới biết có kẻ nào đó vu cáo đôi tình nhân ăn cắp của ngân hàng Mỹ City Bank 500.000 USD!
Tất nhiên, Julian không bị truy tố. Tất cả thiết bị máy móc được trả lại. Lúc đó, Julian tự nhủ lòng cần phải rút vào bí mật. Julian đưa người yêu lên thành phố Melbourne sống bất hợp pháp trong một căn hộ nhỏ. Sau đó không lâu, bạn gái của Julian cấn bầu. Julian lại đưa bạn gái về gần nhà mẹ. 18 tuổi, Julian mới làm lễ kết hôn không chính thức với người bạn tình. Không lâu sau, Julian đã có một đứa con trai.
Bẻ khóa, xâm nhập mạng máy tính đã trở thành một phần cuộc sống của Julian Assange. Cuộc phiêu lưu khám phá thế giới số luôn được mở rộng với kiến thức học được.
Các hoạt động táo bạo của nhóm International Subversives bắt đầu bị cảnh sát liên bang Úc chú ý. Họ thành lập một chuyên án về nhóm này mang mật danh “Chiến dịch Thời tiết”.
Lãng tử Julian Assange: Tin tặc mũ trắng
Julian Assange không ngừng xâm nhập các hệ thống máy tính. Mặc dù không có ý định gì xấu xa, anh luôn nơm nớp lo sợ bị bắt.
Tháng 9-1991, Julian Assange xâm nhập trạm đầu cuối chính của Công ty Viễn thông Canada Nortel đặt tại Melbourne, Úc. Lúc đó Julian tròn 20 tuổi, vẫn hoạt động trong nhóm hacker International Subversives.
Julian thường xâm nhập hệ thống máy tính của Nortel vào ban đêm. Đó là lúc hệ thống ở trong tình trạng lơ mơ. Nhưng một đêm nọ, có một quản lý mạng của Nortel trên hệ thống. Cảm thấy bị bắt quả tang, Julian nhắn tin: “Tôi đã nắm quyền kiểm soát hệ thống”. Julian viết nửa đùa nửa thật nhưng không xưng tên.
“Từ lâu, tôi loay hoay trong bóng đêm. Bây giờ, cuối cùng tôi đã thấy ánh sáng”- Julian viết tiếp. Tay quản lý không trả lời. Julian gửi tiếp một tin nhắn: “Thật là thú vị khi dạo chơi trên hệ thống của anh. Chúng tôi không làm gì có hại cả. Xin đừng báo Cảnh sát Liên bang Úc”.
Ác mộng
Việc nhóm International Subversives xâm nhập hệ thống máy tính của Nortel trở thành một đầu mối thông tin quan trọng của Chiến dịch Thời tiết, chuyên án của Cảnh sát Liên bang Úc về nhóm tin tặc International Subversives.
Ken Day, trưởng nhóm điều tra, nhận định: “Julian là tin tặc giỏi nhất và bí ẩn nhất trong nhóm. Động cơ của y mang tính vị tha. Theo tôi nghĩ, Julian hành động theo đức tin ai cũng có quyền tiếp cận bất cứ thứ gì”.
Julian Assange rất sợ bị bắt. Quyển Underground (một cuốn sách Julian viết chung với nhà văn Suelette Dreyfus) mô tả “Mendax (nickname của Julian Assange) thường nằm mơ thấy bị cảnh sát truy đuổi ráo riết, nghe tiếng chân nghiến trên con đường đầy sỏi đá, thấy bóng người chập chờn trong bóng đêm nhạt nhòa, thấy họng súng tự động đen ngòm của cảnh sát đột nhập nhà bằng cửa sau lúc 5 giờ sáng”.
Julian chỉ có thể cảm thấy nhẹ lòng khi anh giấu đĩa vi tính trong cái tổ ong anh nuôi trong nhà. Tháng 10-1991, Julian lâm vào cảnh vô cùng khốn khó. Vợ anh bỏ nhà theo trai, đem theo đứa con trai. Julian hầu như không ăn uống, ngủ cũng rất ít. Ngày 29-10, Ken Day gõ cửa, bước vào nhà Julian: “Tôi nghĩ rằng anh đang đợi tôi”.
Julian Assange sống trong nỗi sợ hãi bị bắt
Assange bị cáo buộc 31 tội danh bao gồm tội xâm nhập bất hợp pháp các hệ thống máy tính và các tội liên quan khác. Trong khi chờ ngày hầu tòa, Julian bị suy nhược thần kinh phải nhập viện.
Chính quyền Úc mất hơn 3 năm để đưa Julian Assange và các thành viên khác của nhóm International Subversives ra tòa. Một nhóm an ninh mạng làm việc cho Nortel ở Canada báo cáo rằng những cuộc xâm nhập hệ thống máy tính Nortel gây thiệt hại nghiêm trọng. Tiền sửa chữa có thể hơn 100.000 USD.
Julian Assange đối mặt với nguy cơ lãnh án 10 năm tù giam nếu báo cáo trên chính xác. Julian mua quyển Vòng đầu của nhà văn Nga Alexandr Solzhenitsyn viết về các nhà khoa học và kỹ thuật viên bị lưu đày, đọc tới đọc lui ba lần vì cảm thấy “sao giống cuộc đời mình”.
Julian cho rằng việc xâm nhập máy tính để “dòm ngó” chẳng có tội tình gì vì trên thực tế anh chẳng làm gì có hại cho hệ thống cả. Anh quyết định chống án tới cùng. Cuối cùng, Julian nhận 25 tội danh. Sáu tội danh khác bị hủy bỏ.
Tuy nhiên, trong phiên xử cuối cùng, chánh án kết luận: “Không thấy có chứng cứ nào khác ngoài chuyện tò mò và khoái cảm được lướt sóng trên các máy tính”. Julian Assange chỉ bị phạt một số tiền nhỏ.
Cuộc chiến giành con
Sau khi kết thúc vụ án trên, Julian và mẹ lao vào một cuộc chiến khác, lần này là chiến dịch giành quyền nuôi con trai của Julian. Cuộc chiến này cam go và khó khăn hơn vụ án tin tặc.
Julian và mẹ – bà Christine- đưa ra lý lẽ rằng vợ Julian và bạn trai mới của cô ta là một mối đe dọa cho đứa bé. Nhưng, Cơ quan Bảo vệ Trẻ em Úc (HCS) không chấp nhận lập luận của Julian, viện cớ không rõ ràng.
Cuộc chiến giành nuôi con bất thành càng khiến cho mẹ con Julian Assange căm ghét chính quyền. Bà Christine nói: “Những gì chúng tôi thấy là cả một bộ máy quan liêu khổng lồ chèn ép dân chúng”.
Bà Christine và Julian cùng với nhiều người thành lập một tổ chức mang tên Cha mẹ Thẩm tra việc Bảo vệ trẻ em. Họ vận dụng luật tự do thông tin Úc để tiếp cận tài liệu của HCS, tổ chức rải tờ rơi, khuyến khích các nhà hoạt động bảo vệ trẻ em thu thập thông tin nội bộ để lập “ngân hàng dữ liệu trung ương”.
Năm 1999, sau gần 30 phiên điều trần và kháng án. Julian đạt được một thỏa thuận với vợ về việc nuôi con. Trong thời gian này, theo lời bà Christine, cả hai mẹ con đều mắc chứng hậu sang chấn stress giống như bệnh của binh sĩ Mỹ trở về nhà sau khi tham chiến ở Iraq. Đặc biệt, tóc của Julian vốn màu đen nâu đã biến đổi thành đủ màu.
Có một thời gian Julian đến Việt Nam cưỡi mô tô rong ruổi khắp hang cùng ngõ tận. Anh làm nhiều nghề khác nhau, kể cả nghề tư vấn an ninh mạng, để sống. Anh dùng số tiền tiết kiệm được chu cấp cho con.
Trở về Úc, Julian ghi danh học môn vật lý ở Trường Đại học Melbourne với kỳ vọng giúp ích được nghề tin tặc. Nhưng kết quả không được như ý. Là học trò của Kafka, Koestler và Solzhenitsyn, Julian tin rằng sự thật, sáng tạo, tình yêu và đam mê đã bị các thể chế hiện hữu hủ hóa, tinh thần con người bại hoại.
Julian phác thảo một tuyên ngôn chống việc “cai trị bằng âm mưu”, áp dụng lý thuyết đồ thị vào chính trị. Julian tin rằng các thể chế chính trị âm mưu dùng bí mật để tồn tại, bất chấp lợi ích của nhân dân. Triệt tiêu được bí mật, làm cho dòng thông tin giữa những kẻ âm mưu bị teo tóp đến mức gần bằng không thì sẽ không còn âm mưu nữa. Rò rỉ bí mật trở thành một công cụ của chiến tranh thông tin. Đó là lý do ra đời WikiLeaks.
Lãng tử Julian Assange: Vô gia cư
Năm 2006, Julian Assange tự nhốt mình trong một căn nhà gần Trường Đại học Melbourne để xây dựng trang web WikiLeaks.
Chiếc giường ngủ của Julian đặt ngay trong phòng bếp cho tiện. Anh viết hàng đống sơ đồ của hệ thống trên tường, trên cửa để lúc nào cũng nhìn thấy cho khỏi quên. Julian mời sinh viên của trường đại học ở lại đêm giúp anh xây dựng trang web WikiLeaks. Một trong số sinh viên đó kể lại: “Julian hầu như không ngủ cũng không ăn uống”.
WikiLeaks được xây dựng theo một mô hình cực kỳ phức tạp, có khả năng bảo mật tài liệu hữu hiệu hơn bất cứ hệ thống mạng nào của ngành ngân hàng gấp nhiều lần, theo lời kể của Julian Assange với nhà báo Raffi Khatchadourian của tờ The New Yorker.
WikiLeaks, theo Julian, là một dạng báo chí mới, mang tính khoa học và minh bạch. Sứ mệnh của WikiLeaks là chống bất công. Julian Assange cổ súy một “phong trào xã hội” tiết lộ các bí mật “có thể lật đổ những chính quyền tồn tại bằng cách che giấu sự thật, kể cả chính quyền Mỹ”.
Một chiếc xe dân sự của Iraq bị trực thăng Mỹ oanh kích tại Baghdad. Ảnh: World Press
Người của bí ẩn
WikiLeaks không giống một tổ chức truyền thông theo kiểu truyền thống. Nó không có nhân viên ăn lương, không có máy photocopy, không có bàn làm việc, không có ban phòng. Nó tiếp nhận các tài liệu bí mật từ những người cùng chung chí hướng với Julian Assange: Chống lại bất minh và bất công. WikiLeaks không bao giờ tiết lộ nguồn thông tin mà nó cung cấp trên mạng.
Bản thân Julian cũng không có nhà. Anh di chuyển từ nước này sang nước khác, ở đậu nhà bạn, nhà bạn của bạn, nhà cảm tình viên. Có những lúc, Julian sống ở các sân bay quốc tế.
Hành tung của Julian rất bí ẩn. Julian giới thiệu WikiLeaks lần đầu tại Diễn đàn Xã hội Thế giới, một hội nghị chống chủ nghĩa tư bản, tổ chức tại Kenya cuối năm 2006.
Sau đó, anh lưu lại Kenya vài tháng. Trong thời gian này, Julian thỉnh thoảng liên hệ với bạn bè qua điện thoại di động hoặc mạng internet nhưng không bao giờ cho biết đích xác đang ở đâu.
Có hàng trăm người tình nguyện trên thế giới làm việc bán thời gian cho WikiLeaks, giúp bộ máy vô cùng phức tạp của nó hoạt động 24/24 giờ. Chỉ có năm ba người làm việc thường trực cho nó.
Để giữ bí mật, cán bộ chủ chốt của WikiLeaks chỉ được biết đến bằng âm đầu của tên, ví dụ ông M. bà C. Những người này, kể cả Julian Assange liên lạc với nhau qua dịch vụ chat mã hóa trực tuyến.
Kế hoạch B
Sáng 30-3-2010, một người Úc cao lớn tự xưng là Julian Paul Assange đến một ngôi nhà cổ nhỏ nằm trên đường Grettisgata, ở Reyjavik, thủ đô nước Cộng hòa Iceland, hỏi thuê.
Đi chung với người khách lạ có vài người bản xứ. Julian tự giới thiệu với chủ nhà: “Chúng tôi là nhà báo đến đây để viết về vụ núi lửa Eyjafjallajokull phun trào”. Sau khi chủ giao nhà, Julian nhanh chóng kéo rèm kín mít tất cả cửa sổ, đêm hay ngày gì cũng vậy.
Ngôi nhà biến thành một phòng tác chiến. Julian gọi nó là hầm trú ẩn. Hầm có chừng nửa chục máy vi tính. Dưới sự chỉ đạo của Julian, các nhà hoạt động bản xứ làm việc không nghỉ. Mục tiêu của họ là xuất bản Kế hoạch B.
Đó là mật danh của một cuộn băng video được xếp hạng tài liệu mật dài 39 phút quay từ buồng lái trực thăng Apache của Mỹ tác chiến ở Baghdad, Iraq, ngày 12-7-2007. Cuộn băng mô tả lính Mỹ ba đợt bắn phá bừa bãi vào các mục tiêu dân sự, trong đó có hai vụ giết chết ít nhất 10 thường dân và 2 phóng viên hãng tin Reuters.
Cuộn băng miêu tả sự tàn ác và không minh bạch của chiến tranh hiện đại mà Mỹ tiến hành ở Iraq và Afghanistan. Julian dự định trình bày Kế hoạch B trước một nhóm nhà báo tại CLB Báo chí Quốc gia ở Washington ngày 5-4-2010 với tên gọi “Sự kiện 2007”. Để thực hiện ý định này, Julian và các đồng sự phân tích rất kỹ cuộn băng gốc, biên tập nó thành một cuốn phim ngắn dài 17 phút, mở một chiến dịch báo chí, chuẩn bị tài liệu. Tất cả được thực hiện trong vòng chưa đến một tuần. Cả cuộn băng gốc dài 39 phút và cuộn băng ngắn hơn đã biên tập đều được tung lên mạng, tạo một cơn sốc cho Bộ Quốc phòng và chính quyền Mỹ.
Thay đổi thông tin báo chí
Julian Assange muốn khi tung cuộn băng (và các tài liệu mật khác) lên mạng, sẽ không có cách gì gỡ nó xuống. Anh rất tự tin khi tuyên bố: “Chính phủ hay công ty nào muốn gỡ nó xuống thì chỉ có cách phế bỏ internet”. Julian cho biết nội dung cuộn băng được lưu giữ trong hơn 20 máy chủ khắp thế giới, sử dụng hàng trăm tên miền. Chi phí thuê mướn máy chủ lấy từ nguồn tài trợ của ủng hộ viên và của một số chiến hữu.
WikiLeaks không sợ bị kiện. Các luật gia đại diện cho ngân hàng Anh Northern Rock từng dọa khởi kiện khi WikiLeaks tiết lộ một văn bản nội bộ gây bối rối cho lãnh đạo ngân hàng này và cuối cùng gần như phải năn nỉ WikiLeaks tha cho.
Một chính khách Kenya cũng dọa kiện sau khi WikiLeaks tiết lộ một báo cáo mật cho thấy tổng thống nước này Daniel Arap Moi và những người cùng cánh rút ruột ngân sách nhà nước tuồn ra nước ngoài hàng tỉ USD. Kết quả, WikiLeaks được Tổ chức Ân xá Quốc tế ở Anh trao giải thưởng báo chí
Sau “Sự kiện 2007”, WikiLeaks tiếp tục tung ra tiếp “Nhật ký chiến tranh Afghanistan” bao gồm 76.900 tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Mỹ hồi tháng 7 và “Nhật ký chiến tranh Iraq” với 400.000 tài liệu mật hồi tháng 10 vừa qua.
Kể từ ngày 28-11, WikiLeaks bắt đầu rò rỉ nhỏ giọt tài liệu mật của Bộ Ngoại giao Mỹ mà Julian nói lên đến hàng trăm ngàn, một sự kiện được mô tả như một vụ khủng bố 11-9 ngành ngoại giao thế giới.
Nhật báo New York Daily News gọi WikiLeaks là “một trang web có thể hoàn toàn làm thay đổi thông tin báo chí”.
THẢO HƯƠNG
Bình luận mới nhất