Vài nét về Dòng họ Vũ (Võ) ở Việt Nam
Bài: Vũ Thị Thành – Vũ Sáng
Ở Việt Nam, dòng họ Vũ (Võ) là một trong số rất ít dòng họ xác định được nguồn gốc chung vừa rõ ràng, vừa lâu đời.
Theo cổ sử, khoảng năm 300 trước công nguyên, các dân tộc Việt thuộc dòng Bách Việt bị người phương Bắc chèn ép, phải lùi xuống phía nam, hình thành 4 quốc gia riêng biệt là Đông Việt, Mân Việt, Nam Việt và Lạc Việt. Trong hơn 1.200 năm sau đó, 4 quốc gia này liên tục bị người phương Bắc tìm cách thôn tính, người Bách Việt liên tục bị người Hán tìm cách đồng hoá. Tới năm 960, khi nhà Tống áp đặt được ách thống trị lên toàn cõi Trung Hoa thì trên bản đồ chỉ còn lại vùng đất châu Giao còn những người Việt chưa bị Hán hoá, nhưng cũng đã bị người Hán áp đặt sự cai trị từ khá lâu rồi.
Bấy giờ, ở thôn Mã Kỳ – xã Long Khê – phủ Thường Châu – tỉnh Phúc Kiến có dòng họ Vũ gốc Mân Việt nổi tiếng là nhân đức, thời nào cũng có nhiều người làm thày giáo giỏi, làm quan thanh liêm. Một trong số các vị đó là Vũ Công Huy làm quan nhà Đường, có chính thất là Lưu Thị Phương. Khi tuổi đã ngoại 60 mà vẫn chưa có con trai, Vũ Công Huy thường than phiền: “Tiền rừng bạc bể dễ như cỏ cây, con hiếu cháu hiền quý hơn vàng ngọc” rồi sau đó cáo quan, về quê. Vốn trên thông thiên văn, dưới tường địa lí, nay lại không còn vướng bận việc công, Vũ Công Huy liền đi thăm thú các nơi. Tới đất Châu Giao, thấy ở vùng đồng bằng thuộc huyện Nam Sách – tỉnh Hải Dương ngày nay có 100 gò đất hình tròn chầu xung quanh một gò cao nhất, tạo thành thế “bách nhạn hội sào” (một trăm con chim nhạn quây quần về tổ) rất quý, Vũ Công Huy bèn về quê, đem hài cốt cha là Vũ Công Oanh (tức Vũ Tiên Oanh) sang táng ở gò đất cao nhất, tục gọi là Đống Dờm. Tới đầu triều Lê có quan tham chính Trần Xuân Án người xã An Lạc – huyện Thanh Lâm được thày địa lí là Nguyễn Trọng Diệu chỉ cho Đống Dờm để táng mộ tổ. Khi đào lên, thấy một bia đá đề “Đường An, Khả Mộ, Vũ thị tổ mộ”, Trần Xuân Án bèn bỏ đi tìm nơi khác, đồng thời báo cho người họ Vũ ở làng Mộ Trạch biết để bái tảo. Ngày nay, tấm bia ấy vẫn còn nguyên ở chỗ cũ.
Ngoài xây cất mộ cha ở Đống Dờm, Vũ Công Huy còn tạo lập cơ ngơi gần đó để an hưởng tuổi già. Ít lâu sau, thấy ở làng Mạn Nhuế có người con gái tên là Nguyễn Thị Đức gốc nhà gia giáo, tính tình đôn hậu, nói năng dịu dàng, Vũ Công Huy rất lấy làm cảm mến nên cậy nhờ người đứng ra tác thành hôn sự. Hơn một năm sau, Nguyễn Thị Đức có thai. Gần tới kì sinh nở, vợ chồng cùng trở về cố hương. Tới đêm mùng 8 tháng giêng năm Giáp Thân (804), khi trên trời bỗng có một áng mây vàng hình tròn bay lơ lửng che xuống sân nhà, làm sáng rực cả một khu đất rộng thì Nguyễn Thị Đức hạ sinh một người con trai diện mạo “mày vua Nghiêu, mắt vua Thuấn, vai vua Thang, lưng vua Vũ”. Cả nhà vô cùng mừng rỡ. Vũ Công Huy đặt tên con là Vũ Hồn (chữ Hồn có nghĩa là hồn nhiên, ôn hoà, thông minh).
Bản ngọc phả họ Vũ hiện còn lưu ở đình làng Mộ Trạch do Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính sao từ chính bản năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) có đoạn viết về Vũ Hồn như sau: “Năm 7 tuổi bắt đầu đi học, sách vở xem qua một lượt đã nhớ hết. 12 tuổi học đã tinh thông văn chương, qua cửa Trình, cửa Chu, học lực vượt họ Âu, họ Tô, thi tài cùng ông Lý, ông Đỗ”. Năm Canh Tí (820), Vũ Hồn 16 tuổi, thi đình đỗ đại khoa, được vua Đường khen là người tài thứ nhất trong thiên hạ, phong làm Lễ bộ tả thị lang; năm Canh Thân (840) được thăng Đô đài ngự sử, coi sóc việc quan quyền trong triều; năm Tân Dậu (841) được thăng An Nam đô hộ sứ. Các bộ chính sử đều đề cập việc này. Ví dụ: An Nam chí lược (do Lê Tắc soạn năm 1355) ghi: “Vũ Hồn làm An Nam kinh lược, năm Hội Xương thứ ba” (tức năm 843); Việt sử lược (được soạn khoảng năm 1377) có ghi tên Vũ Hồn trong danh sách các quan cai trị An Nam thời Đường; Đại Việt sử kí toàn thư (do Lê Quý Đôn soạn năm 1479) ghi: “Tân Dậu (tức năm 841) Đường Vũ Tôn Viêm, Hội Xương năm thứ nhất, nhà vua xuống chiếu lấy Vũ Hồn làm kinh lược sứ thay Hàn Ước”.
Quay trở lại làm quan đứng đầu quê mẹ, Vũ Hồn thường về làng Mạn Nhuế viếng mộ ông nội và đi kinh lí các vùng. Tới vùng Lạp Trạch, thấy thế đất đúng như 4 câu tương truyền “Muốn cho con cháu làm quan – Thì tìm thiên mã phương Nam đứng chầu – Muốn cho kế thế công hầu – Thì tìm chiêng trống bày chầu hai bên”, Vũ Hồn bèn hoạ đồ, cắm đất, mộ dân, lập ấp, đặt tên Khả Mộ (đáng mến), sau đổi là Mộ Trạch (nay là thôn Mộ Trạch – xã Tân Hồng – huyện Bình Giang – tỉnh Hải Dương).
Vũ Hồn thường tâm sự với người thân: “Người xưa lấy việc được phụng dưỡng cha mẹ già một ngày còn hơn làm đến tam công (ba ông quan to nhất trong triều). Nay ta còn mẹ tuổi đã già, chẳng lẽ ham quyền cao chức trọng mà sao nhãng việc đó ư?”. Lại nhân triều Đường chia rẽ, bè phái, Vũ Hồn bèn cáo quan, về quê cha đón mẹ sang đất Khả Mộ để ngày đêm phụng dưỡng. Ấy là năm Giáp Tý (844). Vài năm sau mẹ mất, Vũ Hồn đem linh cữu mẹ chôn cất ở tổng Kiệt Đặc (nay là thôn Kiệt Thượng thuộc xã Văn An – huyện Chí Linh – tỉnh Hải Dương) là nơi thế đất đẹp đầu hướng về dãy núi Phượng hoàng chân hướng phía Lục Đầu Giang “Đầu gối sơn, chân đạp thuỷ”. Về ngôi mộ của vị tổ mẫu này, báo An ninh thế giới số 603 ngày 08/11/2006 đã có bài đăng rất chi tiết.
Ở Khả Mộ, Vũ Hồn vừa dạy học, vừa bốc thuốc chữa bệnh cho dân, sống rất nhân hậu nên được dân trong vùng ví như mặt trăng, mặt trời, kính yêu như cha mẹ, suy tôn là “hương thuỷ tổ” (ông tổ của quê hương). Ngày mùng 3 tháng chạp năm Quý Dậu (853), Vũ Hồn đang ngồi dạy học thì thấy trong người không yên rồi tự nhiên mà mất, thọ 49 tuổi. Dân làng an táng Vũ Hồn tại một gò cao ở cánh đồng phía bắc làng (gọi là Mả Thần). Vừa hạ huyệt bỗng mây đen kéo tới, trời đất tối sầm, mưa như trút. Lát sau mưa tạnh, mây tan, nắng lại chiếu sáng rực. Mọi người bừng tỉnh thì thấy kiến, mối đã đội đất đắp cho ngôi mộ thành ra rất to. Dân làng lấy làm lạ, vội đi báo quan. Quan bảo: “Đó là điều kì lạ, chứng tỏ người rất thiêng, dân hãy lập miếu thờ”. Dân làm theo ngay. Quan cũng dâng sớ lên, nhà vua nhận được liền ban sắc phong Vũ Hồn là “Thượng đẳng phúc thần”. Vũ Hồn được coi là thần tổ của dòng họ Vũ (Võ) Việt Nam, là thành hoàng của làng Mộ Trạch từ đó.
Trải qua các triều đại xưa, đức thần tổ Vũ Hồn, thành hoàng làng Mộ Trạch đã được các vị vua ban tặng rất nhiều sắc phong nhưng nay chỉ còn lưu giữ được 12 đạo. Triều Trần phong “Thông minh, tuệ trú, hùng kiệt, trác vĩ, thượng đẳng thần”, nghĩa là “Vị thần bậc trên thông minh, trí tuệ, mạnh mẽ, rộng rãi”. Triều Lê sơ phong “Tế thế, an dân, kinh phù, ngưng hiệu, thượng đẳng thần”, nghĩa là “Vị thần bậc trên giúp đời, yên dân, thiêng giúp, ứng lớn”. Triều Lê mạt, phong 6 lần: năm Long Đức thứ hai (1732), phong “Phù cảm, huy quốc, tuy dân”, nghĩa là “Linh ứng, giúp nước, yên dân”; năm Vĩnh Hiệu thứ ba (1737) phong “Châu linh, hiển uý, thịnh liệt”, nghĩa là “Thật thiêng, ứng thấy ngay, rất thịnh”; năm Cảnh Hưng thứ nhất (1740) phong “Hoành hiệu, diên phúc, dụ hậu”, nghĩa là “Vui lớn, phúc lâu, giàu bền”; năm Cảnh Hưng thứ mười tám (1767) phong “Khải văn, thiệu vũ, đốc khánh”, nghĩa là “Mở nền văn, gây nghiệp vũ, dốc lòng về phúc”; năm Cảnh Hưng thứ bốn mươi (1779) phong “Diểu quang, khuông lộ, xương dấu”, nghĩa là “Mở rộng vinh, mở rộng phúc, thịnh vượng lâu dài”; năm Chiêu Thống thứ nhất (1787) phong “Thuần hổ, hồng hi, phu mĩ”, nghĩa là “Thọ, phúc lớn, tốt đẹp”. Triều Tây Sơn, năm Quang Trung thứ nhất phong (1788) “Di trạch, nghiên cổ, hoằng dụ, phổ khánh”, nghĩa là “Ơn lớn, tốt đẹp, giàu có, phúc to”. Triều Nguyễn, phong ba lần: năm Tự Đức thứ mười hai (1859) phong “Tuấn lương, tối linh, phù vân đại vương”, nghĩa là “Đại vương sáng lành, rất thiêng, phù trợ”; năm Tự Đức thứ ba mươi (1878) phong “Dục bão trung hưng”, nghĩa là “Mạnh giúp nên trung hưng”; vua Khải Định phong “Quang ý”, nghĩa là “Sáng suốt”.
Trên 1.200 năm qua, vật đổi sao dời, nước có lúc thịnh lúc suy, nhà có lúc tan lúc hợp nhưng lớp lớp cháu con dòng họ Vũ (Võ) Việt Nam dù ở bất cứ nơi đâu, dù mang họ Vũ hay đã cải thành họ Võ (*), Đặng Vũ, Nguyễn Vũ… thì vẫn một lòng hướng về quê tổ ở Mộ Trạch, về đức thần tổ Vũ Hồn. Đặc biệt, ở thời nào, người dòng họ Vũ cũng nêu cao truyền thống yêu nước, thương nòi, rèn đức, luyện tài, lập nghiệp, giúp đời. Dưới thời phong kiến có tới 166 người họ Vũ đỗ tiến sĩ, trong đó có 30 người họ Vũ làng Mộ Trạch. Chính vì thế mà Mộ Trạch được gọi là “tiến sĩ sào” (ổ tiến sĩ). Khoa thi năm 1656, cả nước có hơn 3.000 người dự thi chỉ có 6 người đỗ tiến sĩ, trong đó có 3 người họ Vũ làng Mộ Trạch, khiến vua Tự Đức phải phê rằng “nhất gia bán thiên hạ” (một nhà bằng nửa nước).
Dòng họ Vũ (Võ) Việt Nam với bề dầy lịch sử hơn 1.200 năm đã luôn không ngừng sát cánh cùng với trăm họ trong cả nước nêu cao truyền thống bất khuất “con lạc, cháu hồng”, đoàn kết xây dựng một đất nước Việt Nam giầu mạnh sánh vai với các cường quốc 5 châu. Nhà thơ Vũ Quần Phương của chúng ta đã viết:
Trăm họ làm nên một nước nhà
Góp phần có họ Vũ nhà ta
Đọc thơ – hái quả càng ơn gốc
Nghĩ việc – thương gần lại nhớ xa
Hỡi ai bút mực lòng thăm thẳm
Máu đỏ tình thâm chẳng nhạt nhoà
Cháu con một họ yêu trăm họ
Trăm họ làm nên một quốc gia.
(*) Chi, nhánh họ Vũ ở miền Bắc di chuyển vào miền Trung và miền Nam, đã chuyển sang họ Võ, do phải kiêng tên hiệu của chúa Nguyễn (phạm húy) là Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), cũng như họ Hoàng phải chuyển sang họ Huỳnh do kiêng tên chúa Nguyễn (Nguyễn Hoàng). Đối với chữ Hán, Nôm chữ Vũ hay Võ đều chỉ là 1 chữ. hovuvovietnam.com/index.php
Chú Thích:
Những địa danh lưu giữ di tích liên quan đến thủy tổ dòng họ Vũ (Võ) Việt Nam được nhiều cháu con thăm viếng là:
1. Miếu thờ và Lăng mộ Đức Thần tổ Vũ Hồn tại làng Mộ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Đi từ Hà Nội theo đường số 5 đến Km 38 gặp ngã tư Quán Gỏi rẽ tay phải qua cầu Kẻ Sặt có đường nhựa thẳng về đến tận làng Mộ Trạch. Hàng năm cứ đến ngày Lễ Tổ mùng 8 tháng Giêng âm lịch con cháu họ Vũ (Võ) khắp nơi trong nước và cả một số hậu duệ ở nước ngoài cùng về dự lễ hội truyền thống. Số người về hàng vạn người, có cả những người ngoài họ Vũ (Võ) và các phóng viên, các nhà nghiên cứu sử học…. cũng tham gia.
2. Ngôi mộ cổ ông nội đức Thần tổ Vũ Hồn ở Đống Dờm Nam Sách đã được chôn cất hơn 1.200 năm nay vẫn còn những bia đá rất nhiều ý nghĩa trên đó. Đó là vùng đất đắc địa với những câu như: “Bách nhạn hội sào” hay ” Cửu thập bát tú tiều dương”. Mộ Tổ Đống Dờm ở ngay cạnh đường nhựa của thị Trấn Nam Sách. (Đường Trần Phú nơi có nhà máy gạch tuy-nen có biển xi măng to ghi chữ “Mộ Tổ họ Vũ (Võ) VN). Từ TP Hải Dương đi về Nam Sách 12 Km là đến nơi. Xe có thể vào tận gò mộ.
3. Ngôi mộ cổ của Mẹ Đức Thần tổ Vũ Hồn là cụ Nguyễn Thị Đức được an táng ở tổng Kiệt Đặc nay là thôn Kiệt Thượng xã Văn An, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Cách Phả lại 5,5 Km và cách thị trấn Sao Đỏ 4,5 Km sẽ có lối rẽ vào cùng phía và gần UBND xã Văn An. Xe con và xe nhỡ vào được tận lăng mộ.
Nguồn:
Vũ Thị Thành – Vũ Sáng
lambamblog
Th6 14, 2011 @ 05:55:26
Họ Vũ thời Hai Bà Trưng: Bát nà Tướng Quân Vũ Thục Nương
Công chúa Bát Nạn (八難), còn gọi là Bát Nàn (có sách chép là Bát Não).
Bát Nạn công chúa là vị anh thư thời Trưng Vương. Bà vốn là con của Võ Công Chất và Hoàng Thị Mầu. Thân phụ bà là hào trưởng ở Phượng Lâu, khi bà chào đời, cha mẹ đặt tên là Thục, về sau bà nổi tiếng tài sắc, tục gọi Thục nương. Chồng của bà là Phạm Danh Hương (có sách chép là vị Lạc hầu Trương Quán) quê ở Đức Bác tức Liệp Trang, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Vợ chồng bà đều có lòng yêu nước, ngầm lo việc cứu nước, giúp dân.
Bấy giờ có tên hào mục (là Trần) căm tức vì không cưới được Thục nương, bèn ton hót với Thái Thú Tô Định rằng vợ chồng Thục nương có ý “làm phản”, nên bắt giết đi.
Năm Kỷ Hợi (39), khi Đặng Thi Sách bị giết ở Châu Diên, thì chồng bà cũng bị giết ở Duyên Hà. Quân Tô Định vây dinh trại, chồng bà bị hại, nửa đêm bà cầm song đao, mở đường máu chạy đến làng Tiên La, vào chùa ẩn thân. Từ ấy, nặng nợ nước thù nhà, bà quyết chí báo phục, đêm ngày chiêu tập hào kiệt dựng cờ khởi nghĩa.
Tháng 3, năm Canh Tý (40), Hai Bà Trưng lãnh đạo nhân dân toàn quận phát động cuộc khởi nghĩa. Bà theo giúp, cùng với nữ tướng Lê Chân thống lãnh quân tiên phong.
Cứu quốc thành công, nước nhà độc lập, Trưng vương phong bà làm Bát Nạn đại tướng quân Trinh thục công chúa. Bà từ chối tước lộc, chỉ xin đem đầu giặc tế chồng một tuần. Tế xong, bà cởi bỏ nhung trang, trở lại chùa ở làng Tiên La. Nhưng chẳng bao lâu nghe tin Mã Viện kéo binh sang, bà dấn thân cứu nước lần nữa. Chị em Trưng vương tuẫn quốc trong ngày 6 tháng 2, bà cũng tử tiết trong ngày 16 tháng 3 năm Quý Mão (43).
Các triều đại sau truy phong bà làm thần:
Đời Lê Thánh Tông (黎聖宗; 1442-1497), sắc phong: Ý đức đoan trang Trinh thục công chúa.
Đời Minh Mạng nhà Nguyễn sắc phong: Dực bảo trung hưng linh phù chi thần.
Đời Khải Định (啟定; 1916-1925 ), sắc phong: Dực bảo trung hưng linh phù thượng đẳng thần.
Vì khi cầm binh đuổi giặc, từ cửa sông Đáy về ngã ba sông Nông, bà thường cai quản 18 cửa ngàn, nên tục gọi bà là bà Thượng ngàn. Và ngôi chùa mà bà ở tu, sách chép là chùa Nam Liên ở trên núi, nên tục cũng gọi bà là sư nữ Nam Liên. Nơi chùa Nam Liên có đôi liễn thờ bà:
“Vị quốc Nguyên khu, quắc thước thoa quần bình Bắc khấu;
“Xuất gia đầu Phật, anh hoa khí tiết bạn Nam Liên”.
Bản dịch:
“Vì nước quên mình, quắc thước thoa quần bình giặc Bắc;
“Tìm về cõi tịch, anh hoa khí tiết rạng chùa Nam.
http://www.vietgle.vn
Thiên An
Th8 14, 2012 @ 20:17:06
Tôi rất vui mừng và tự hào về dòng họ Vũ 武 có nguồn gốc tổ tiên rõ ràng minh bạch. Tự hào vì dòng họ Vũ là dòng họ lớn ở Việt Nam có nhiều danh nhân trong lich sử như Vũ Thục Nương, Vũ Công Duệ…Ở quê tổ tại Trung Quốc thì có Nữ Hoàng Vũ Tắc Thiên 武则天 (WuZeTian) là một vị nữ hoàng nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc
Tuấn Hải
Th8 16, 2012 @ 15:37:44
Tôi cũng rất vui mừng khi biết được người Cha đầu tiên của dòng họ Vũ là ngài Vũ Hồn 武魂 người Phúc Kiến,Trung Quốc đã đến đất Việt định cư và sinh ra dòng họ Vũ 武 có danh vọng. Ở quê cha đất tổ ngoài nữ hoàng Vũ Tắc Thiên 武则天 còn có một nhân vật nổi tiếng là Vũ Tùng 武从 (miền nam đọc là Võ Tòng) đả hổ, một trong 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc 梁山伯, trong truyện Thủy Hử 水浒,nói ra thì người Việt ai cũng biết. Thật là tự hào !
Vũ Hà My
Th5 13, 2013 @ 03:40:23
Mình cũng rất hãnh diện vì là người họ Vũ 1 dòng ho khá nổi tiếng nhưng mình có thắc mắc là khi các bạn nhận cả Võ Tắc Thiên hay Võ Tòng những người rất nổi tiếng ở Trung Quốc và Bát nạt tướng quân người Viêt Nam cũng là những người trong dòng họ Vũ Hồn.
Theo sự hiểu biết về 3 ng trên như sau:
Bát nạt tướng quân sống từ thời Hai Bà Trưng mà chúng ta đêu biết Hai Bà Trưng từ thời trước công nguyên cụ thể là mùa xuân năm 39 trc CN như thế làm sau Vũ Thị Thục Nương có thể là con cháu của cụ Vũ Hồn đc vì cụ sinh năm 804 sau CN, tương tự với trường họp của vị nữ vương đầu tiên của Trung Quốc có thể nói bà o hề liên quan tới cụ thủy tổ Vũ Hồn của chúng ta Võ Tắc Thiên sinh năm 625 cũng trc cả cụ tổ của chúng ta nguồn gốc của bà là đây:
Gia đình bà có nguồn gốc ở huyện Văn Thuỷ (文水), thuộc quận Tinh Châu (幷州; hiện nay là thành phố Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây). Cha bà là Võ Sĩ Hoạch (武士彠) (577-635), một thành viên thuộc một gia đình quý tộc danh tiếng ở Sơn Tây. Mẹ bà họ Dương (楊氏) (579-670), xuất thân từ gia đình quý tộc hoàng gia nhà Tuỳ. Võ Tắc Thiên không phải sinh ở Văn Thuỷ, bởi cha bà đảm nhận nhiều chức trách ở nhiều nơi trong suốt cuộc đời. Bà được cho là sinh ở Lợi Châu (利州) hiện là thành phố Quảng Nguyên (廣元市), phía bắc tỉnh Tứ Xuyên, cách Văn Thủy khoảng 800 km về phía tây nam, nhưng một số nơi khác cũng được cho là nơi sinh của bà gồm cả thủ đô Trường An.
Còn về Võ Tòng nhân vật này cũng khá quen thuộc vs nhưng bạn đã xem hoặc đọc Thủy Hử 1 tác phẩm xếp vào hàng kinh điển của Trung Quôc:
Võ Tòng xuất thân từ huyện Thanh Hà, phủ Đông Bình, tỉnh Sơn Đông. Từ nhỏ mồ côi cha mẹ và được anh ruột là Võ Đại Lang nuôi dạy. Ông là người tráng kiện, oai hùng, mắt sáng như sao, mày ngài, ngực rộng, cơ bắp cuồn cuộn, cao 8 trượng. Từ nhỏ Võ Tòng đã mê luyện võ thuật, sư phụ ông là Châu Đồng, một vị đại sư Thiếu Lâm tự. Lớn lên ông có võ nghệ cao cường, thường hay uống rượu, thích hành hiệp trượng nghĩa, nổi tiếng là con người nghĩa khí. Ông sinh vào thời nhà Tống khoảng năm 1115 tuy sinh sau cụ tổ nhưng nhánh họ Võ xuất xứ của Việt Nam đâu có liên quan j đến Trung Quốc.
Nếu bạn nào biết hãy giải đáp giúp mình thắc mắc này nhé. Cảm ơn các bạn nhìu!!!
Tuấn Hải
Th5 13, 2013 @ 17:10:02
Họ Vũ 武 (âm Trung Quốc là “Wu3” đọc là “Vù” như tiếng Việt. Miền bắc VN đọc là Vũ thì gần giống âm TQ hơn. Còn sau này, vì kỵ húy nên miền trung và miền nam phải đọc trại ra là Võ). Họ Vũ phát xuất từ Trung Quốc thì trước khi dòng họ Vũ truyền sang Việt Nam, họ này có ba nguồn gốc. Thứ nhất, họ Vũ bắt nguồn từ tên của một nước nhỏ đời nhà Hạ 夏, gọi là Vũ La Quốc 武罗国, những người đời sau lấy Vũ làm họ, Thứ hai, họ Vũ gốc từ họ Tử 子,vua Tống Vũ Công 宋武公 đời Xuân Thu, có một nhánh con cháu của ông lấy Vũ làm họ. Thứ ba, ho Vũ gốc từ họ Cơ 姬,tương truyền Châu Bình Vương 周平王 khi sanh con trai, trong lòng bàn tay của nó có chữ Vũ 武, nên vua ban cho họ Vũ. (Theo Trung Hoa Tính Thị Đối Liên Giám Thưởng 中华姓氏对联鉴赏 của Lý Văn Trịnh 李文郑, do nhà xuất bản Trung Châu Cỗ Tịch Xuất Bản Xã 中州古籍出本社 ấn hành tại Trung Quốc năm 1999)。
Ở Trung Quốc, theo truyền thống, người có cùng một họ, họ không cần biết có nguồn gốc khác nhau, họ vẫn coi nhau như người một nhà. Thường những người cùng một họ không được kết hôn với nhau, vì cùng chung một huyết thống, dù là lâu đời đi nữa, gene di truyền vẫn sống mãi với thời gian. Như vậy, đâu có gì sai khi tự hào vì dòng họ của mình có những nhân vật nổi tiếng như Nữ Hoàng Vũ Tắc Thiên 武则天 , Võ Tòng đả hổ 武从打虎, nữ tướng quân Vũ Thục Nương 武淑娘.
Ở Việt Nam thì những người có nguồn gốc ở tỉnh Hải Dương, thì mới chắc chắn Thủy Tổ của họ là ngài Vũ Hồn 武魂,người tỉnh Phúc Kiến 福建, Trung Quốc. Còn những người họ Vũ có quê quán ở những nơi khác thì không có gì bảo đảm lắm, vì người Việt đã từng trải qua nhiều cuộc thay tên đỗi họ. Có khi người ở chung một làng với nhau cũng lấy chung một họ, nhưng không hẳn là có huyết thồng với nhau. Điển hình nhất là dòng họ Nguyễn, có nhiều dòng họ khác đổi sang, nên ngày nay số người mang họ Nguyễn mới đông đảo như vậy. Ngày nay, khoảng chừng 50% dân số Việt Nam mang họ Nguyễn, và dòng họ này đã gắn liền với cái tên Việt Nam, nên có câu: “Họ Nguyễn là Việt Nam, Việt Nam là họ Nguyễn”.
Cám ơn bạn Vũ Hà My đã đóng góp ý kiên
Vũ Thành Khan
Th5 29, 2013 @ 05:22:49
Tôi là người họ Vũ nhưng tôi cảm thấy tự hào vớ vẩn vậy là không đáng. Vì ông bà cha mẹ đến tôi là lai với biết bao họ tộc khác ở Việt Nam. Đâu phải tôi mang trong người mỗi dòng máu họ Vũ. Tôi nghĩ Vũ Hồn là người Trung Quốc chẳng có gì phải tự hào. Dòng máu ông ta chảy trong người tôi được 1% không. Tương tự với các bạn. Thờ đến ông bà nên chấm dứt được rồi.
Tuấn Hải
Th5 31, 2013 @ 01:12:10
Nói về sự đi tìm nguồn gốc thì phải truy đên tận ngọn mới đúng, không thể tính lưng chừng ở giữa được. Hơn nữa theo y học thì gene di truyền nó sống mãi với thời gian, và nó cứ tái đi tái lại hoài chứ không bao giờ ngưng, và nó không bao giờ bị tiêu diệt.. Vì gene di truyền tồn tại mãi với thời gian mà ngày nay vẫn có nhiều người Việt trông rất giống người Hoa.
Vũ Chí
Th1 14, 2014 @ 16:58:52
Thủy tổ Vũ Hồn là người tỉnh Phúc Kiến, mà tỉnh này xưa là đất người Việt cổ sinh sống. Nên có thế ở thời điểm đó là người Trung Quốc nhưng biết đâu gốc gác xa hơn nữa lại là người Việt
Lily
Th1 11, 2015 @ 22:19:29
Nhiều người hay lôi kéo những cái gì thuộc về của người khác là của mình. thí dụ như bạn Vũ Chí và đồng thời cũng có nhiều người khác giống bạn đưa ra giả thuyết là người Phúc Kiến xa xưa có thể nguồn gốc từ người Việt ra. Nếu thế thì người Hoa cũng có thể nói rằng người Việt có ngưốn gốc từ họ ra vậy. Dù thật hay giả nếu đôi bên không công nhận nhau thì giả thuyết đó cũng chỉ vô giá trị mà thôi. Thế gian này mọi sự đều là tương đối, chứ không có cái gì là tuyệt đối cả, mọi chủng tộc và mọi loài không nhiều thì it cũng đều có liên quan đến nhau.
Wu Tianan
Th1 11, 2015 @ 15:26:58
Bạn Thanh khan có tư tưởng rất nông cạn, vì chỉ thu hẹp đến ông bà mà thôi. Hãy noi gương dân tộc Do Thái trải qua mấy ngàn năm họ lai đủ mọi chủng tộc trên thế giới mà vẫn tự hào mình là người Do thái. Tổ tiên không thể chỉ giới hạ nở ông bà, đó là sai lầm lớn
Triệu
Th1 12, 2015 @ 14:27:03
Bạn Vũ Thành Khan, làm sao bạn biết được trong người bạn chỉ có 1% di truyền của tổ tiên xa đời của bạn (viễn tổ 元祖), nếu bạn không thử nghiệm DNA làm sao bạn dám quả quyết như vậy được ? Vì thời gian không phải là điều quả quyết di truyền bị giảm đi đâu. Bạn đã đánh giá quá thấp hạt giống di truyền rồi đó (gene). Di truyền có thể tái đi tái lại nhiều lần bất kể là trải qua bao lâu hay bao nhiêu đời bạn ạ. Thí dụ có những cha mẹ hoàn toàn là khuôn mặt Việt da vàng mũi tẹt, mà tại sao lại đẻ những đứa con giống như lai tây mũi cao, da dẻ trắng trẻo hơn cha mẹ đứa trẻ, hay đẻ con giống như “ba tầu” có cặp mắt mơ màng như người Hoa, hoặc con cao ráo hay thấp bé hơn cha mẹ mình ? Đa số gia đình người Việt đều không ghi chép hay lưu trữ gia phả nên họ đều cũng không biết tỗ tiên của họ đã lai Tây tai Tàu hay cao thấp từ đời nào mà nay con họ lại giống Tây, giống Tầu hay cao thấp khác với cha mẹ mình, hoặc có thể mang những bệnh có tính di truyền mà ông bà cha mẹ là mối liên hệ gần gũi nhất không hề có. và nhiều thứ khác nữa không kể hết. Kết luận , hạt giống di truyền không bao giờ chấm dứt nên nó có thể còn tái đi tái lại mãi mãi, cũng có lúc nó mờ nhạt đi, rồi lúc nó lại phục hồi trở lại. Từ “vớ vẩn” của bạn kể ra cũng hơi nặng và làm buồn lòng tổ tiên bạn đấy. Xin lỗi bạn vì phải nói ra sự thật này.
sua may giat
Th9 05, 2013 @ 07:34:05
Cảm ơn bài biết đã cho biết rỏ về nguồn gốc sâu xa của mình.
Tuấn Hải
Th9 09, 2013 @ 18:52:30
Hãy noi gương dân tộc Do Thái, họ trải qua hàng ngàn năm lưu lạc khắp nơi giới và đồng hóa thành dân bản xứ, nhưng nhiều người vẫn giữ truyền thống Do thái và tự hào nhận mình là con cháu Israel. Họ là một dân tộc thông minh nhất và làm chủ nhiều hệ thống quan trọng trên thế giới, điễn hình là hệ thồng ngân hàng thế giới, Hollywood và nhiều trung tâm giải trí,,,,,,
Vo Van Quang
Th1 11, 2015 @ 09:07:14
Võ mới là tên gốc chứ không phải Vũ. Võ Thê Lang là thầy giáo thời Hùng Vương vẫn còn bia mộ, di tích này xưa hơn cả họ Vũ Hồn cả ngàn năm. Trong quá trình hình thành tiếng Việt thì Võ là từ gốc sau này tiếng Hán mới đọc là Vũ rồi Bắc Thuộc ảnh hưởng ngược qua chữ Hán mới. Họ vua Văn Vương, Võ Vương là gốc Việt cổ… Danh từ Vũ và chữ ‘Vũ’ không phân biệt được giữa Võ (võ nghệ) và Vũ (vũ đạo, muá…). Khi ta nói Văn – Võ Song Toàn thì mọi người sẽ hiểu, chứ không ai nói Văn – Vũ Song Toàn cả, trời ạh… Tôi không biết rằng cụ Võ Nguyên Giáp có cùng dòng với họ Vũ ở Hải Dương hay không? Cho dù cụ Vũ Hồn đến từ TQ nhưng đó là người nước Bách Việt cổ U-Việt chứ không phải người Hoa Hạ… Tôi chỉ tin người Việt họ Võ xưa nhất là là cụ Võ Thê Lang thầy giáo thời Hùng Vương… Người Việt có bộ gien gốc Đông Nam Á trước khi lên lập nghiệp ở Trung Nguyên (Trường Giang) trước khi dân tộc Hoa Hạ hình thành, cho nên trong cái gien ngôn ngữ có cả vốn từ vựng gốc ĐNÁ nữa vì vậy mà giữ được những từ ‘Rặt Việt’ như số đếm từ Một… Năm, cái Chén, làm Ruộng, đánh Võ (không ai nói đánh vũ). Vd; không ai nói ‘tôi biết đánh Võ, tôi là con nhà dòng họ Vũ… nghe không được! phải nói ‘tôi biết đánh võ, tôi con nhà họ Võ’… ngay trong từ Hán chữ Wu nghĩa là Muá, Wu Dao (vũ đạo), hay Tiao Wu (khiêu vũ)… do chữ Hán phương Bắc bị mất nhiều âm tiết…
Wu Tianan
Th1 11, 2015 @ 15:42:49
Cau trả lời của bạn Quang chứng tỏ bạn không biết chữ Hán, va bạn cũng không biết miền Bắc có trước miền trung va mien Nam trước khi vua chúa mình xâm chiếm các nước nhược tiểu như Chàm, Khmer,..để mở mang bờ cõi. Như vậy âm Vũ là âm gốc va gan giống với Wu của Trung quốc.
Tuấn Hải
Th1 11, 2015 @ 21:27:59
Bạn Võ Văn Quang có nhận xét sai lầm về chữ 武 âm Hán-Việt đọc là Vũ hay Võ. Miền Bắc lãnh thổ Viêtnam có trước tiên rồi sau này đất nước mới mở mang thêm nhờ xâm chiếm các nước nhược tiểu và đồng hóa họ. Người học chữ Hán mới hiểu rõ chữ 武 Wu, âm tiếng Việt phiên âm là Vũ hay Võ cũng chỉ là một chữ này mà thôi, Âm Vũ thực ra là âm chính gốc của miền bắc. Sau này từ miền trung trở đi vì kị tên Chúa Nguyễn Phúc Nguyên hồi nhỏ Ngài có tên Vũ nên mới người ta phải đọc lệch ra là Võ đã trở thành thói quen cho đến ngày này. Chữ Vũ 武 theo tiếng Trung Quốc cũng nguyên âm “U” trong âm Wu, và âm tiếng Quảng Đông và Hàn Quốc đọc là Mu và âm Nhật Bản đọc là Bu thì tất cả năm âm Việt, Trung, Quảng, Hàn và Nhật đều có nguyên âm “U” ở trong. Như vậy âm Võ có nguyên âm “O” là âm sau này đã bị đọc lệch ra rồi. Nhiều người không biết chữ Hán cứ tưởng Vũ và Võ là hai họ khác nhau, nhưng thực ra cả họ Vũ và Võ đều thờ một ông tổ là Vũ Hồn 武浑 (WuHun) ở tỉnh Hải Dương mà thôi. Dòng họ Vũ (Võ) là con cháu của Ngài Vũ Hồn 武浑 , nhưng chính xác nhất phải là những người có nguyên quán tại tỉnh Hải Dương, hoặc ít nhất cũng có một trong những ông bà tổ tiên của họ có sinh quán tại Hải Dương. Cám ơn các bạn đã đọc bài viết này
Võ thành lam
Th3 06, 2015 @ 14:56:18
Bài viết hay, có ý nghĩa, chân thành cảm ơn tác giả. May mắn thay tôi được trùng ngày tháng sinh của ngài 8-1-1972
Tuan Hai
Th3 20, 2015 @ 15:43:25
Mình thấy hầu hết các dòng họ thì rất it có dòng họ nào có nguồn gốc rõ ràng minh bạch bằng dòng họ Vũ 武 cả. Đa phần họ thường bỏ đi cái đấu là cội nguốn đầu tiên ở Trung Quốc, mà chỉ lấy cái mình la mot ong ba nao do ở đất An Nam mà thôi. Điều này có thể là vì tư tưởng bài Hoa (Anti-Chinese) quá mạnh mẽ, nên họ không muốn dính dáng gì đến huyết thống của Trung Quốc. Mình cũng không dám khẳng định tất cả mọi dòng họ đều có gốc Hoa, nhưng con số người Việt có gốc Hoa cũng không phải là it, có thể là vì bị mất gia phà hay họ cố tình lảng quên mà thôi,. Chỉ có dòng họ Vũ là dòng họ dám nhận mình là hậu duệ của một ông tổ từ Trung Quốc đến mà thôi, Tôi rất kính phục dòng họ Vũ (Võ) vi họ không quên cội nguồn của mình mặc dù tư tưởng bài Hoa ở Việt Nam đang phỗ biến
Ghi chú : Người Việt có gốc Hoa là người có tổ tiên người Hoa nhưng đã bị Viêt hóa rồi, chứ không phải người Việt gốc Hoa (Vietnamese Chinese) là người Hoa có quốc tịch Viêt Nam nhung van giu goc Hoa cua ho.
Vo Van Quang
Th7 30, 2016 @ 07:40:28
Vũ-Võ-Wu là từ gốc tạo nên chữ Việt – chứng tỏ tên họ Vũ-Võ đã có từ xa xưa trước khi hình thành cái gọi là chữ Hán…