Nghe nhạc! Trường ca Hội trùng dương – Danh ca Thái Thanh

Bình luận về bài viết này

Sáng tác: NS Phạm Đình Chương

1. Tiếng Sông Hồng

Trùng dương, trùng dương, trùng dương…

Trùng dương…..chốn đây ngàn phương,
Có ba dòng sông cuốn xuôi biến Đông nhớ câu chờ mong.
Về khơi sóng muôn triền tới,
Nước non buồn vui đây hội trùng dương đầy vơi.
Sóng muôn triền tới, sóng xô về khơi, như muôn tình mới,
Vươn sức người dựng giữa đời.

Chiều nay nước xuôi dòng đại dương
Có em tên sông Hồng dâng sóng tuôn trên nguồn.
Vẩn vơ nắng quái vươn trên phù sa
Có những cô thôn mờ xa đón bầy dân đánh cá.
Ngày qua trai gái sống vui một miền,
Quanh năm anh cuốc em liềm vun xới ruộng mùa lúa chiêm.

Từ thượng du nước trôi về trung châu,
Ấp êm đồng ruộng sâu bên người áo nâu dãi dầu.

Hò ơi….. Gối đầu trên Lào Cay Việt Trì,
Em nằm tóc xõa bãi cát dài
Thả hồn mơ tới Thái Tình qua Sơn Tây.
Hò ơi…..
Nhớ ngày nao dân chúng lên đường
Đem thịt xương ngăn giữ nương đồng
Đem vinh quang thắm tô sông Hồng.

Nằm mơ, xuân vinh quang, trở về, cho non sông,
Và ngày nao nơi nơi xiết chặt nguồn thương
Là ngày em mơ duyên người lập công.

2. Tiếng Sông Hương

Miền Trung vọng tiếng,
Em xinh em bé tên là Hương giang,
Đêm đêm khua ánh trăng vàng mà than.
Hò ơi, phiên Đông Ba buồn qua cửa chợ,
Bến Vân Lâu thuyền vó đơm sâu.

Hỡi hò, hỡi hò.
Quê hương em nghèo lắm ai ơi,
Mùa đông thiếu áo hè thì thiếu ăn.
Trời rằng, trời hành cơn lụt mỗi năm à ơi,
Khiến đau thương thấm tràn,
Lấp Thuận An để lan biển khơi, ơi hò ơi hò.

Hò ơi…… Ai là qua là thôn vắng,
Nghe sầu như mùa mưa nắng cùng em
Xót dân lều tranh chiếu manh.
Hò ơi…… Bao giờ máu xương hết tuôn tràn,
Quê miền Trung thôi kiếp điêu tàn
Cho em vang khúc ca nồng nàn.

Ngày vui, tan đao binh, mẹ bồng, con sơ sinh,
Chiều đầu xóm xôn xao đón người trường chinh.
Ngậm ngùi hân hoan tiếng cười đoàn viên.

3. Tiếng Sông Cửu Long

Ồ ồ ồ Đây Miền Nam
Nước sông sông cao cá lội ngù ngờ
Nước xanh xanh lơ có thêm cây rừng
Về về đây miền Đồng Nai có Cửu Long
Cuộn chảy dâng miền Nam mạch sống
Một sáng em ra khơi Vĩnh Long tươi cười
Và Cần Thơ, Long Xuyên lừng vườn cau lửa chín
Đời vươn lên thuyền ghé bến
Sống no nê dân quê một miền
Kìa Hắc Dương, Sơn Đây nắng khô đồng lầy
Chiều chiều tới. Hò lơ hò lơ, hò là hò lơ

Chẻ tre bện sáo cho dầy,
ơ chứ anh lên sông Mỹ có ngày… gặp em

Ô hò ơi ra… biển khơi
Trùng Dương…
Ba chị em là ba miền Đem nhưng tình thương nối liền
Gặp nhau bên trời biển Đông thắm duyên
Hẹn nhau.
Tha hồ sống lại bốn phương trời,
đem tự do tranh đấu bao người,
cho quê hương ấm no muôn đời
Giờ đây bao tâm tư, rộn ràng như câu thơ
Hội Trùng Dương tay tay xiết chặt nguồn thương
Dựng đời vinh quang hoa đời tự do…

Nghe nhạc: Xuân Muộn (Tiếng hát Hà Thanh)

Bình luận về bài viết này

Xuân Muộn

Sáng tác: Nhạc sĩ Hoài Linh

Nhiều khi mơ ước đi lạc vào thiên thai
Để theo Lưu Nguyễn xa biệt hẳn cõi đời
Tiên giới không Xuân Hạ Thu Đông
Bốn mùa hoa nở đào tiên dâng
Điện vút đài cao chín tầng

Chiều ba mươi Tết ta còn gì cho nhau
Lại thêm Xuân nữa gieo nhẹ vào mái đầu
Đâu đó vu vơ vài tiếng Pháo
Giữa lòng quê mẹ còn binh đao
Thấy hoa xót mai thương đào

Xuân ơi, Xuân từ đâu đến?
Ta có quen em, Đông tàn đến tìm
Trần gian nhiều đau khổ rồi
Chờ bàn tay nhung gấm vuốt ve tươi lòng thế nhân

Giàu vui mong đón Xuân về bằng cao sang
Nghèo lo Xuân đến chân thành bằng tấm lòng
Chân bước trong đêm tàn ngõ tối
Giao thừa Xuân muộn dạ không vui
Có người đón Xuân quên cười.

GS Nguyễn Huệ Chi – Buồn vui Chủ nhật: Ám ảnh nhạc vàng trong đời tôi

Bình luận về bài viết này

Nguyễn Huệ Chi

clip_image002Bài viết của Nguyễn Tuấn Ngọc “Yêu nhạc vàng: Máu và nước mắt” tình cờ đến với tôi gần đây làm cho tôi rất đỗi bàng hoàng. Bởi tôi là một kẻ yêu nhạc vàng từ bé. Các chị Táo Hương, Cần Hương con người bác ruột từ Trường Đồng Khánh Huế tản cư về Chi Gia trang năm 1946 đã đem về cho anh em chúng tôi cả một trời mơ mộng qua rất nhiều bản nhạc mà các chị hát: Thiên Thai, Giọt mưa thu, Chùa Hương, Cô láng giềng, Biệt ly, Đàn chim Việt… và cả những bài hát Hội Hướng đạo mà các chị có tham gia, trong khi trong tôi thuở đó cũng đã đầy ắp âm hưởng thơ mới của Xuân Diệu, Huy Cận, Thái Can, Nguyễn Bính… mà tôi nhập tâm trên giá sách Mộng Thương thư trai từ lúc mới lớn lên.

Suốt trong kháng chiến chống Pháp chúng tôi vẫn hát nhạc vàng trên đường tản cư cùng bố tôi khắp những nơi cơ quan ông đóng. Tôi không thể quên một buổi chiều mùa thu năm 1949, ba bố con đi chơi thị trấn Nam Đàn trở về ngôi nhà mình ở nhờ tại làng Vân Diên, khi qua cái barrage trên con sông đào trong vắt nhìn thấy lướt qua mặt mình là một người trai trẻ có hai công an đi kèm. Tôi còn nhớ như in dáng anh ta mảnh khảnh thư sinh, mặc bộ quần áo tây màu tím gụ, mặt trắng, đôi mắt sáng nhưng buồn rười rượi. Bỗng nhiên khi đi sát thành barrage anh ta vụt chồm người lên nhảy một cái. Và chúng tôi nghe dưới sông một tiếng khô khốc dội lên không phải là tiếng ùm của nước. Ba bố con cùng chạy tới nhìn xuống, kinh hãi thấy dưới sâu kia anh ta nằm duỗi thẳng trên tấm bê tông đúc dài theo mặt nước nối với hai bờ sông đào mà hàng ngày người dân vẫn xuống đấy ngồi giặt giũ quần áo, đầu ràn rụa những máu, chân đang giãy những cái cuối cùng. Một cái gì đắng ngắt ứ lên trong cổ, ba bố con lầm lũi đi về không ai nói với ai một lời. Tối hôm ấy không người nào ngủ được, cái chết như một cái gì bí hiểm lần đầu tiên ám ảnh tôi ghê gớm, và những số phận oan khuất như anh Tịnh ở cơ quan bố tôi, cả nhà bị chết khó hiểu ngay từ đầu cuộc cách mạng tháng Tám mà tôi nghe bố tôi và các chú trong cơ quan thầm thì kể chuyện, lần lượt diễn ra trong óc. Bỗng bố tôi cất tiếng hát, hát đi hát lại chỉ một đoạn:

Qua lá cành
Ánh trăng lan dịu dàng
Ru hồn bao nhớ nhung
Đêm lắng buồn
Tiếng thu như thì thầm
Trong hàng cây trầm mơ
Làn gió lướt tới cuốn đưa hồn ta phiêu diêu theo mây trắng trôi lơ lửng
Ngàn muôn tiếng réo rắt côn trùng như than như van mơ hồ theo gió lan.
Trăng xuống dần
Cỏ cây thêm âm thầm
Đông buồn trong ánh sao
Như chiếu nhìn mắt ta bao lạnh lùng
Lay hồn ta rồi tan…”

Tôi và em tôi nằm im thin thít, cảm được trong tiếng hát của bố có tiếng lòng của chính bố mình tuy không hiểu ông đang nghĩ gì.

Sang năm 1950, một trận bom do Pháp oanh kích Nam Đàn thảm khốc đúng lúc chớm vào hè, địa điểm trường tôi là nơi tuyển lục quân nên cũng là mục tiêu của máy bay Pháp. May chúng tôi đều đã học xong vừa về đến nhà nên cả mấy anh em đều thoát chết trong gang tấc, chỉ phải một ngày nằm bẹp dưới hào giao thông và nhịn đói lép ruột. Bố tôi thì thay mặt cơ quan đi dự một phiên tòa cách Nam Đàn 12 cây số từ sớm. Khi nghe tiếng máy bay rồi tiếng bom ông biết Nam Đàn đã bị oanh tạc liền cấp tốc đạp xe về. Ông vượt qua giữa biển lửa, nấp tránh nhiều đợt bom và đạn dum-dum của máy bay làm tung quán xá, nhìn thấy những xác người cháy, những thây người bị hất lên không, cuối cùng về đến nơi chúng tôi ở an toàn làm mấy mẹ con đang khiếp hãi bỗng mừng rỡ như có cứu tinh. Nhưng sau 8 đợt quần thảo, máy bay ngừng, ai nấy trở lên nhà lấm láp phờ phạc, không còn buồn ăn uống. Tối đó sau khi ổn định xong nhân số, gói buộc hết đồ đạc tài liệu, cả cơ quan lại phải thuê đò di chuyển suốt đêm xuống xã Hùng Tiến dưới Rú Ghềnh. Chúng tôi đều mệt rã rời. Vậy mà giữa mặt sông Lam mênh mông, trong màn sương rất dày, ánh trăng vẫn hiện lên chiếu xuống nước thành những vệt lấp lóa. Bố tôi và các chú trong cơ quan ngồi trên mui mấy con thuyền đi sát nhau thốt nhiên cùng cất lên tiếng hát, hát bất kỳ bài nào, toàn là nhạc vàng quen thuộc: “Đêm nay thu sang cùng heo may/ Đêm nay sương lam mờ chân mây/Thuyền ai lờ lững trôi theo dòng…”; “Rồi đây khi mùa dứt chiến chinh/Dưới trăng giữa mùa thanh bình… /Đưa chân dồn bước bên cầu… giã từ mấy câu…”; “Ai về thành đô tôi gửi vài lời/Tây hồ mờ xa là nhà tôi đó/Đây chợ Đồng Xuân bên dòng Nhị Hà/Đi học về qua luôn hát vui ca…”; “Giơ tay cương quyết ta ôn lời thề ước/Hy sinh ta quyết mong báo đền ơn nước/Dù thân này tan tành giữa sa trường cũng cam/Nguyện trung thành với sơn hà nước Nam”… Tiếng hát rạo rực như muốn giãi bày những cảm xúc buồn vui xen lẫn đang trào dâng của hơn chục con người hòa vào nhau, âm vang cả mặt sông khiến cho ấn tượng về một cuộc ra đi sau một ngày bom đạn chết chóc găm chặt vào tâm hồn tuổi trẻ mấy anh em tôi không thể nào quên.

Năm 1951 tôi ở trọ tại xã Hùng Tiến để học trung học ở Trường Tân Dân Nam Đàn. Là một học sinh giỏi, quanh tôi có rất nhiều bạn, nhiều nhất là các bạn nữ đồng tuổi mà tôi chỉ gọi tên hoặc hơn tuổi thì gọi bằng chị. Các bạn và các chị thường đến dạy cho tôi hát, tôi nhớ nhất là chị Diệu Khanh có giọng hát rất hay. Khi lớp học kết thúc, nhà trường cho đốt lửa trại suốt đêm. Rồi gần sáng chúng tôi bịn rịn chia tay. Trước lúc tôi quay về Hà Tĩnh không bao giờ trở lại, nhóm bạn nữ tập hợp nơi tôi trọ, tôi và Diệu Khanh cùng hát với nhau bài Nụ cười sơn cước, nước mắt thầm chảy trong lòng: “Tôi nhớ mãi một chiều xuân chia phôi mây mờ buông xuống núi đồi và trong lòng mưa hơn ở ngoài trời…”.

Đến khi ra Hà Nội học Trường đại học Tổng hợp (1956), ở trọ tại xóm Thanh Nhàn Ô Đống Mác, bắt đầu biết yêu, tôi vẫn thường được nghe qua hàng rào dâm bụt giọng ngân rất vang của cô bạn hàng xóm mà mình thầm nhớ và hình như cũng nhớ trộm mình nhưng không ai chịu thổ lộ, hát bài Ngậm ngùi do Phạm Duy phổ nhạc thơ Huy Cận.

Rồi về Viện Văn học tôi lại vẫn hát nhạc vàng trong khi bạn bè tôi ở Viện hát các bài hát Nga du dương và tất nhiên tôi cũng rất thích các bài đó, nhất là trong tốp hát có người yêu của tôi.

Cuối năm 1968 trong đêm bế mạc Lớp đại học Hán học tại nơi sơ tán, tốp ca của chúng tôi lên trình diễn bài “Chỉ còn đêm nay đôi ta sẽ chia tay/Đường ven lối vắng sánh bước tay cầm tay…”. Trong tốp ca này có tôi cùng với người tôi yêu – một tình yêu câm lặng tuy cả hai đều biết rõ những gì không nói thành lời.

Cuối những năm 70 lại một tình yêu sét đánh mà tôi không cưỡng được, một tình yêu đã để lại một món nợ lớn trong đời khiến tôi không bao giờ trả hết. Chúng tôi, mấy anh chị em trong Ban văn học Cổ cận thường mở những băng nhạc vàng để nghe chất giọng trầm ấm của Sĩ Phú: “Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám, khi vừa biết yêu…”; hay tiếng hát lanh lảnh quyến rũ nhưng hơi sến của Giao Linh: “Chiều mưa biên giới anh đi về đâu? /Sao còn đứng ngóng nơi giang đầu/Kìa rừng chiều âm u rét mướt/Chờ người về vui trong giá buốt người về bơ vơ…”. Nhưng tôi có một bài hát riêng không băng nhạc nào có mà nàng lại rất thích vì mấy chị em trong nhà nàng từng hát từ nhỏ, còn tôi thì nhập tâm ngay từ trước 1945: “Bao tháng ngày xa vắng trôi còn đây nếp trường xưa/Xa vắng càng thiết tha mong bên mấy khung song thưa/Say ngắm từng gian lớp xinh lòng xao xuyến tình thơ/Bao tình thơ ngây những lúc vui chơi cùng ngồi quanh bóng mát cùng reo cười/Cây bàng xưa đây lá tốt xanh tươi/Trạnh lòng ai nhớ tiếc khôn nguôi/ Trông khắp trường thấy khác xưa từ hiên trước tường sau/Nay biết tìm bóng ai kia trong trí tôi in sâu/Ngao ngán thời gian khác xưa ngày nay biết tìm đâu…”.

Vậy là trên cả chặng đường dài của cuộc đời tôi, dù sống giữa miền Bắc cách mạng, mọi tình cảm lãng mạn bị triệt tiêu tận gốc, không hiểu sao nhạc vàng vẫn tự do theo tôi trên suốt mọi hành trình. Không chỉ có tôi mà anh tôi, Từ Chi, cũng vậy. Hồi trẻ anh ấy hát rất hay, đã từng dạy lũ trẻ chúng tôi ở Mộng Thương thư trai vào khoảng năm 1952 nhiều bài hát vàng anh đem từ mặt trận về khiến chúng tôi mê đắm. Đến năm 1977, lúc đó nhạc vàng vẫn bị cấm rất ngặt, một hôm anh đến nhà tôi, lôi từ trong túi ra một băng cassette bảo tôi mở cho anh nghe. Thì ra một băng nhạc tiền chiến của miền Nam, nghe đi nghe lại có đến hàng trăm lần nên âm thanh đã rão hết. Nhưng tôn trọng anh tôi vẫn ngồi cùng anh để anh say sưa đắm chìm vào mộng tưởng, trong khi tôi có hai băng Sơn ca giọng hát Khánh Ly và Lệ Thu trong vắt, đêm đêm vẫn cùng vài bạn ở Viện như Phúc, Huấn cùng mở ra nghe mê mệt, vậy mà không dám đem ra trình anh, sợ anh cụt hứng với băng nhạc cũ kỹ của mình. Anh nói với tôi: “Nhạc vàng là musique d’Or, không phải musique jaune như bọn Maoiste nói bậy. Chính bọn ấy truyền tư tưởng này sang ta khoảng năm 1953 làm cho ông Lành lên án nhạc vàng và từ đấy không ai dám hát nữa” (một người anh vợ của tôi gần đây cũng nói với tôi những điều hệt như vậy).

Đọc bài viết của Nguyễn Tuấn Ngọc tôi cứ tự hỏi: Không hiểu sao tôi lại không rơi vào tấn thảm kịch mà cùng một thời gian tôi đang hồn nhiên hát hoặc nghe hát nhạc vàng ở Viện thì các anh Nguyễn Thắng Toán, Nguyễn Văn Đắc và Nguyễn Văn Lộc cũng hát và đã phải hứng chịu những đòn trừng phạt cay đắng? Ví thử chỉ một tình cờ nào đó thôi khiến tôi rơi vào cảnh ngộ các anh thi biết đâu sau mấy năm đi tù tôi cũng đã bỏ thân bên vệ đường không khác gì anh Toán – một cái chết tức tưởi chỉ vì một niềm đam mê không cưỡng được nó là cái quyền được bộc lộ của của thế giới sâu kín bên trong, một thứ đam mê không hạ thấp con người xuống mà nâng tâm hồn con người lên, có sức thanh lọc cho người ta trong trẻo hơn, giàu có hơn. Mà đam mê là một cái gì gắn với tạng mỗi người, cũng do từ truyền thống gia đình để lại, tù đày làm sao thay đổi được thứ thiên tính ấy? Cứ nghĩ thế lại thấy số phận mình còn may mắn và trên đời này, giữa cái xã hội đầy đủ nhân quyền như ông Thượng tướng Nguyễn Văn Hưởng nói, thì ra vẫn có nhiều oan trái đến lạ lùng.

Nhưng suy xét cho hết lẽ, tôi càng thấy biết ơn một môi trường như Viện Văn học mà tôi được sống ngày ấy (những năm 60-80 thế kỷ trước), một môi trường thật hiếm có, không hề xét nét khắt khe quyền tự do cá nhân của mỗi con người, miễn anh là người làm việc chuyên môn hết mình. Chúng tôi được quyền đọc và tự do trao đổi về các tác giả và tác phẩm bị Ban Tuyên giáo cấm lúc bấy giờ, chẳng hạn như Aimatov là một một nhà văn Kyrgyzstan rất hấp dẫn với tuổi trẻ nhưng báo chí được lệnh lên tiếng phê phán nặng nề và cấm đọc. Chúng tôi thảo luận Aimatov đến mấy ngày, tranh luận cả với vị Chi ủy viên là ông Hoàng Phê được cử đến tham dự và ông cũng chỉ đưa ra một vài gợi ý chứ không hề ép chúng tôi phải nghe theo luận điểm của ông. Có lẽ dưới con mắt trải đời và giàu lòng nhân ái của các vị lãnh đạo Viện có tri thức rất uyên bác thuở đó là Đặng Thai Mai và Hoài Thanh, những người đầy kinh nghiệm trong việc xây dựng nhân cách lớp trẻ để họ trở thành những người có bản lĩnh học vấn và tư tưởng, chúng tôi đã có được cái may mắn không phải làm một loại “cây thế” giam chân trong chậu cảnh và chịu uốn tỉa rất nghiêm khắc, trái lại ngay từ đầu đã được dạn dày sương gió, được dành một mép lề phóng khoáng cho khoảng trời của những buồn vui, đau khổ riêng mình, và cho cá tính của mình dễ dàng trỗi dậy. Cũng vì thế, thế hệ chúng tôi không những được các vị chọn thầy chọn thợ đào tạo đến nơi đến chốn (nào Pháp ngữ, nào Hán học, nào lý thuyết và phương pháp văn học Tây Âu… ai học không nên thì người ấy chịu) mà nhờ được bảo lưu thiên tính, trong các biến động xã hội về sau, trừ một đôi trường hợp cá biệt, không thấy ai chịu “đánh mất mình”.

Tiếc thay, trong cơn đại hồng thủy của những “thoái trào” không thể cưỡng từ vài thập kỷ lại nay, đời sống tinh thần của ngành khoa học xã hội nói chung cũng như học phong của một Viện Văn học nói riêng, với không khí phóng khoáng và truyền thống khoa học nghiêm cẩn thuở xưa hình như đang bị hụt hẫng. Giới hạn của tự do tư tưởng đang bị thu hẹp lại và cách nghĩ giáo điều, nói theo một kiểu, trở lại thịnh hành. Có phải tôi đã quá già nua để trở nên lẩn thẩn chăng? Có phải đến một tuổi nào đấy người ta chỉ biết quay lại đằng sau với muôn vàn mặc cảm tiếc nuối mà quên mất ánh dương vẫn bừng lên phía trước theo cái lẽ tre già thì măng mọc? Thôi thì hãy cứ coi là như vậy.

NHC

*********

Yêu nhạc vàng: Máu và nước mắt

Nguyễn Tuấn Ngọc

Với nhiều người Hà Nội, ‘vụ án Phan Thắng Toán và đồng bọn bị xét xử về tội truyền bá văn hóa đồi trụy của chủ nghĩa đế quốc, tuyên truyền phản cách mạng và chống lại các chính sách pháp luật của nhà nước’, họ vẫn chưa quên được.

Người đàn ông Nguyễn Văn Lộc năm xưa trong vụ án này bây giờ là chủ quán Lộc Vàng tại ven đường Hồ Tây (Hà Nội).

Hồi đó anh Lộc và những người bạn vì quá mê nhạc tiền chiến nên đã thành lập nhóm nhạc để tụ tập hát nhạc của Văn Cao, Đoàn Chuẩn – Từ Linh, Đặng Thế Phong,… và các nhạc sỹ miền Nam như Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng…

Ngày 27/3/1968, nhóm nhạc anh bị bắt và tạm giam ở Hỏa Lò 3 năm. Vào các ngày 6,7,8 tháng 1 năm 1971 Tòa án nhân dân Hà Nội mở phiên tòa xét xử gồm 7 thành viên. Tòa tuyên án Toán ‘xồm’ 15 năm tù, Nguyễn Văn Đắc 12 năm tù, anh Lộc 10 năm tù… sau khi Hiệp định Paris được ký kết, anh Lộc được giảm án xuống còn 8 năm tù. Năm 1976 anh ra tù.

Anh Lộc thương nhất là anh Toán ‘xồm’ ra tù, mất hết tất cả, không nơi nương tựa, sống nhờ cậy bàn bè và sau đó anh nằm chết ở vệ đường vào năm 1994.

clip_image003

Anh Lộc châm thuốc cho anh Phan Thắng Toán (Toán ‘xồm’) trước khi anh Toán mất. (Ảnh: Nguyễn Đình Toán)

Ra tù anh Lộc đi làm phụ hồ, nhưng tình yêu nhạc vàng, nhạc tiền chiến không hề nguội lạnh.

Anh quyết định mở quán Lộc vàng để hát dòng nhạc một thời được coi là ‘phản động’, nhưng anh coi đó là những tác phẩm quý hơn vàng. Bây giờ quán luôn đông khách và hằng đêm 3, 5, 7 dòng nhạc này vẫn cất vang với giọng hát đã đi qua âm nhạc Việt Nam với biết bao khổ đau. Máu và nước mắt.

clip_image004

Anh Lộc tại quán Lộc Vàng, nhớ lại một thời khổ đau của mình.

Khi nhắc đến người vợ mình, anh Lộc đã khóc. Người vợ đã mất vào năm 2002 và để lại cho anh 2 đứa con tiếp tục theo nghiệp âm nhạc. Người vợ đã yêu anh trước khi anh bị bắt và chờ đợi anh trong 8 năm ngồi tù để cưới anh. Anh Lộc nói anh phải đi vào Quy Nhơn để làm thuê kiếm tiền về cưới vợ. Anh nói không bao giờ anh gặp lại được một người phụ nữ như thế: hy sinh cả cuộc đời cho một người đàn ông như anh. Anh coi vợ anh là ‘người hùng’.

Vợ anh luôn thích anh hát bài ‘Niệm khúc cuối’ của Ngô Thụy Miên, và bây giờ anh không thể hát được bài hát đó nữa, vì khi anh cất lên thì anh lại vỡ òa khóc nức nở.

clip_image005

Báo Hà Nội ngày 12/1/1971 đưa tin ‘Phan Thắng Toán và đồng bọn bị xét xử về tội: truyền bá văn hóa đồi trụy của chủ nghĩa đế quốc, tuyên truyền phản cách mạng và chống lại các chính sách pháp luật của nhà nước’

Tôi chưa nghe người nào hát nhạc phẩm ‘Gửi người em gái’ của Đoàn Chuẩn – Từ Linh hay bằng anh. Một giọng hát quá trữ tình và sâu lắng. Anh đã hát đúng bản gốc của tác phẩm này, vì anh cho biết nhạc phẩm đang được thu âm và hát lại bây giờ đã bị thay lời quá nhiều, nhất cả khi các ca sỹ hải ngoại hát.

Hàng ngày, người đàn ông này vẫn hát lại những ca khúc cũ của một dòng nhạc đã đi qua bầu trời văn nghệ Việt Nam với biết bao trầm luân. Nó cũng giống như số phận của anh Lộc khi trót mang kiếp cầm ca.

Tôi tự hỏi trong đám văn nghệ tào lao và khoe mẽ trên truyền thông hôm nay, có mấy ai có được phẩm giá và đam mê âm nhạc như anh Lộc?

(Người Việt / blog Face Book Nguyễn Tuấn Ngọc)

Nguồn: boxitvn

Nhạc Việt: Tiếng Hát Hà Thanh!

Bình luận về bài viết này

Chiều Mưa Biên Giới

Sáng tác: Nguyễn Văn Đông

*

Mấy Dặm Sơn Khê

Sáng tác: Nguyễn Văn Đông

*

Tà Áo Tím

Sáng tác: Hoàng Nguyên

*

Chiều Vàng

*

Hương Thu Về

ST: Hoàng Nguyên

*

Đêm Tàn Bến Ngự

ST: Dương Thiệu Tước

*

Nụ Cười Sơn Cước

ST: To Hải

*

Nhớ Một Chiều Xuân

ST: Nguyễn Văn Đông

*

Tôi Đi Giữa Hoàng Hôn

ST: Văn Phụng

*

Gửi Gió Cho Mây Ngàn Bay

ST: Đoàn Chuẩn – Từ Linh

*

Thiên Thai

ST: Văn Cao

*

Giọt Mưa Thu

ST: Đặng Thế Phong

*

Khối Tình Trương Chi

ST: Văn Cao – Phạm Duy

*

Đêm Đông

ST: Nguyễn Văn Thương

*

Khúc Tình Ca Xứ Huế

ST: Trần Hoàn Quân

*

Kinh Chiều

ST: Trường Khanh

*

Hoa Xuân

ST: Phạm Duy

*

Suối Mơ

ST: Văn Cao

*

Ai Lên Xứ Hoa Đào

ST: Hoàng Nguyên

*

Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp

ST: Nguyễn Văn Đông

*********

Nghe nhạc: Hải Ngoại Thương Ca (ST: Nguyễn Văn Đông; TB: ca sĩ Hà Thanh)

Bình luận về bài viết này

Hải ngoại thương ca

Sáng tác: Nguyễn Văn Đông

Trình bày: Hà Thanh

Một mùa thương . . . kết muôn hoa lòng
Người về đây . . . nối câu tâm lòng
Về cho thấy . . . xuân nồng áo em
Cho tình . . . xưa thôi cách xa
Về chung mái nhà lá

2.
Người về đây . . . giữa non sông này
Hội trùng dương . . . hát câu sum vầy
Về cho thấy . . . con thuyền nước Nam
Đi vào . . . mùa Xuân mới sang
Xa rồi ngày ấy ly tan

Tôi . . . đi . . . giữa trời . . . bồi hồi
Cờ bay phất phới . . . tôi quên chuyện ngày xưa
Mong sao . . . nước Việt . . . đời đời
Anh dũng oai hùng . . . chen chân thế giới

3.
Mặc thời gian . . . tóc phai đổi màu
Mặc đại dương . . . sóng to mưa gào
Đàn chim bé . . . trong làn chớp xanh
Yêu trời . . . tự do Á Đông
Thương về đồi núi xa xa

Nghe nhạc! Hòa bình ơi, Việt Nam ơi! ST: NS Trầm Tử Thiêng

Bình luận về bài viết này

Hòa bình ơi Việt Nam ơi

Sáng tác: Trầm Tử Thiêng
Trình bày:  Trung Chỉnh, Phương Dung, Doanh Doanh

Mai đây Hòa Bình.
Ta về ngắm lại dòng sông xưa.
Ðồng hoang xơ xác hai bên
Sẽ mai này thơm mùi lúa chín.
Trên sông người về
Con đò chở đầy vầng trăng quê
Hò khoan cô lái du dương
Ðón đưa người đi về chung đường

ÐK:
Hòa Bình Ơi! Hòa Bình Ơi!
Hòa Bình Ơi! Hòa Bình Ơi!
Ta gánh chung đau thương một trời
Nam Bắc ơi. Quê hương, Tình người
Việt Nam Ơi! Việt Nam Ơi!

2.
Mai đây Hòa Bình
Con tàu chở đoàn người di cư
Về thăm đất Bắc thân yêu
Ðã xa lìa cả thời niên thiếu
Ta mê từng mùa.
Trưa Hè cánh phượng hồng lung lay
Chờ Thu ngắm lá Thu bay
Rước Xuân về vui hội Xuân đầy

ÐK:
Hòa Bình Ơi! Hòa Bình Ơi!
Hòa Bình Ơi! Hòa Bình Ơi!
Ta gánh chung đau thương một trời
Nam Bắc ơi. Quê hương, Tình người
Việt Nam Ơi! Việt Nam Ơi!

3.
Mai đây Hòa Bình
Khung trời quê mình rộng bao la
Ðàn chim tung cánh bay xa
Bắc Nam rồi không còn ngăn cách
Hôm qua Sàigòn
Bây giờ có mặt tại Kontum
Chiều nay khăn gói ra Trung
Sớm mai này đã về Hải Phòng.

ÐK:
Hòa Bình Ơi! Hòa Bình Ơi!
Hòa Bình Ơi! Hòa Bình Ơi!
Ta gánh chung đau thương một trời
Nam Bắc ơi. Quê hương, Tình người
Việt Nam Ơi! Việt Nam Ơi!

Nghe nhạc! Lục Quân Việt Nam

2 bình luận

Lục Quân Việt Nam

ST: Van Giang

Đường trường xa muôn vó câu bay dập dồn,
Đoàn hùng binh trong sương lướt gió reo vang,
Đi đi đi lời thề nguyền tung gươm thiêng thi gan trai
Đời hùng cường quyết chiến đấu đoàn quân ra đi,
Đây đoàn quân ra đi nhịp nhàng,
Mang theo thiên hùng ca thắm tươi trời Nam bốn phương.
Ta anh hùng muôn quân phá tan cường binh
Chí tang bồng đem theo khắp nơi tung hoành

Đường trường xa ta quyết đi cho đến cùng
Nhịp trời mây đoàn quân cất bước đi mau
Nơi biên cương muôn quân theo loa thét vang
Cố chiến thắng thề một lòng chung sức xây Việt Nam quang vinh
Phá tan tành ầm ầm đoàn quân xông pha
Thét oai linh tung gươm giết tan quân thù

Đoàn hùng binh say sưa nhìn trong trời sương
Ta anh hùng đời đời Lục Quân Việt Nam
Xa nhìn thấp thoáng trong mây
Muôn bóng quân Nam chập chùng

xây thành, vinh quang,

Tiếng vang, muôn đời…. Lục Quân Việt Nam!

Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ

Bình luận về bài viết này


Sáng tác: Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang

Ta như nước dâng dâng tràn có bao giờ tàn

Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang

Lê sau bàn chân gông xiềng một thời xa xăm

Đôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loàng xoàng

Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người

Nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi

Nụ cười xa vời nụ cười của lòng hờn sôi

Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian

Máu ta từ thành Văn Lang dồn lại

Xương da thịt này cha ông ta miệt mài

Từng giờ qua

Cười ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi

Chúng ta thành một đoàn người hiên ngang

Trên bàn chông hát cười đùa vang vang

Còn Việt Nam Triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng

Ta như giống dân đi tràn trên lò lửa hồng

Mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm

Da chân mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân trời

Ôm vết thương rĩ máu ta cười dưới ánh mặt trời

Ta khuyên cháu con ta còn tiếp tục làm người

Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam

Làm người ngang tàng điểm mặt mày của trần gian

Hỡi những ai gục xuống ngồi dậy hùng cường đi lên.

Nghe nhạc! Việt Nam! Việt Nam! (ST: Phạm Duy)

Bình luận về bài viết này


Việt Nam Việt Nam nghe từ vào đời
Việt Nam hai câu nói bên vành nôi
Việt Nam nước tôi.

Việt Nam Việt Nam tên gọi là người
Việt Nam hai câu nói sau cùng khi lìa đời
Việt Nam đây miền xinh tươi
Việt Nam đem vào sông núi
Tự do công bình bác ái muôn đời

Việt Nam không đòi xương máu
Việt Nam kêu gọi thương nhau
Việt Nam đi xây đắp yên vui dài lâu
Việt Nam trên đường tương lai,
Lửa thiêng soi toàn thế giới
Việt Nam ta nguyện tranh đấu cho đời

Tình yêu đây là khí giới,
Tình thương đem về muôn nơi
Việt Nam đây tiếng nói đi xây tình người
Việt Nam! Việt Nam!
Việt Nam quê hương đất nước sáng ngời
Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam muôn đời

Việt Nam Việt Nam –
chung khúc trường ca Mẹ Việt Nam của Phạm Duy
phần hòa âm của nhạc sĩ Lê Văn Khoa
Ban hợp xướng Ngàn Khơi trình bày cùng với Festival Orchestra do nhạc sĩ Lê Văn Khoa điều khiển, 1991.

Nghe nhạc! Tình ca quê hương (Ca sĩ Duy Khánh)

Bình luận về bài viết này

Tình ca quê hương>>>click<<<)

Sáng tác: Duy Khánh
Trình bày: Duy Khánh (Nghe nhạc:

Tôi sinh ra giữa lòng miền trung
Miền thùy dương
Ruộng hoang nước mặn đồng chua
Thôn xóm tôi sống đời dân cày
Quê hương tôi ấp ủ Trường Sơn
Quê hương tôi là đây nước chảy xuôi nguồn
Sông cát dài biển xanh Thái Bình
Ðêm trăng cao tiếng hò à ơi
Lời mẹ ru trẻ thơ giấc ngủ hiền ngoan
Và trai gái quê gửi lời chân tình
Qua bao nhiêu tuổi đời ngả ngiêng
Quê hương tôi tả tơi khói lửa điêu tàn
Thôn xóm làng ngẩn ngơ lầm than

Hò ơi… Hương Giang ơi…
Giã từ kinh thành mộng mơ
Lòng tuổi xanh chia tay nhau biết trở về mô.. ơi hò…

Ðây Phương Nam, lúa xanh bóng dừa uốn quanh
Ta sức trai đem cánh tay vẫy vùng ngày mai
Người đi, đem dân ca,
Tiếng hò tiếng hò miền Trung,
Về miền Nam cho nhau nghe những lời thở than giống nòi ..
Ta chia nhau tiếng vui tiếng buồn nước non
Ta quên đi (bao) tiếc thương tủi hờn tuổi son…

Hôm nay đi giữa giòng lệ rơi
Mẹ Việt ơi từ nay hiến trọn đời trai
Theo bước chân những người qua rồi

Ta thương yêu đất mẹ mà thôi
Quê hương ơi ! dù sinh thác gửi cho người
Trong tiếng cười giọng khóc đầy vơi…..

Older Entries